Dòng sông quê hương
Posted at 27/09/2015
165 Views
Hồi tôi còn nhỏ cũng thế, nếu không sợ mẹ đau lòng thì tôi đã không đem đổ cả lũ tượng đất lớn nhỏ mà tôi hì hụi nắn được trong góc vườn. Bắt đầu biết nghịch đất sét, tôi đã mày mò nặn con chó, con mèo, nặn hình ông Thọ, cô tiên.
***
Bé Dung người mảnh dẻ, khuôn mặt nhỏ. Đôi mắt to, đen và có cái nhìn mới sáng làm sao.
Mẹ tôi mỗi lần nhìn vẻ sáng ấy cứ thì thầm nói với tôi: "Sao cứ như là ba con đang nhìn?"
- Mẹ cho em ăn uống đầy đủ lắm mà sao em cứ gầy.
"Khi con còn nhỏ mẹ đâu có chăm kỹ như thế này phải không?" Có lần tôi hỏi khi thấy mẹ buộc khăn vào cổ em, rồi chọn gắp từng miếng thức ăn bỏ vào cái chén kiểu trước mặt. Mẹ bảo: "Em khác, con khác". Mắt mẹ thoảng vẻ buồn.
Cái dáng gầy của mẹ ra vào trong nhà ngoài sân thật đúng như người xưa vẫn ví von: mình hạc xương mai. Lớn lên một chút, tôi thường nghĩ mẹ tôi là con hạc từ trên trời bay lạc xuống đậu trên mảnh đất gồ ghề đầy sóng gió là cha tôi. Cả đời lúc nào tôi cũng mang một ám ảnh. Trong máu của mình, mẹ hay là cha đang ngự trị?
Nhà tôi ở trên bờ sông lớn có con đập chắn ngang. Khi cơn mưa đầu mùa dội về, nước sông cuộn lên vỗ ào ạt như rồng dữ lồng lộn xô mạnh vào bờ đá. Nghe mưa dội ào ào trên mái hiên, em Dung reo lên, chạy ào ra sân nhập bọn cùng lũ trẻ trong xóm, ngửa mặt lên trời tắm mưa.
Mẹ tôi hốt hoảng kêu lên. Tôi đội mưa lao ra, tóm cổ con bé lôi về. Tóc nó ướt lướt thướt dính bết quanh khuôn mặt gầy nhỏ, hàm răng sún nhe ra vô tư. Quần áo dán vào thân thể, hóa thành mỏng tanh, trong suốt như gương. Mẹ tôi ôm chầm lấy em, bọc nó vào trong cái khăn lông mà lau lấy lau để.
Cho thay quần áo rồi, chải tóc hơ chân rồi, mẹ tôi mới lấy cái thước kẻ lớn dần mạnh mấy lần vào bàn tay em. Em tôi rụt tay lại, khóc òa. Mẹ nghiêm giọng quát:
- Con gái nhà lành, ai cho lõa lồ tắm mưa như thế? Đánh thật đau cho nhớ!
Em Dung cứ tức tưởi khóc, hai con mắt to và đen cứ lấp lánh vẻ uất ức gan lì. Cái vẻ gan lì ấy làm hại nó. Mẹ tôi định tha, nhưng thấy vậy lại bắt em quỳ quay mặt vào vách. Tôi muốn xin cho em, muốn nói với mẹ rằng dù sao nó cũng chỉ mới là một con nhãi ranh còn chưa hỉ sạch mũi. Nhưng mẹ bảo tôi, mắt đỏ hoe:
- Măng non không uốn, để cứng thành tre làm sao uốn được?
Tôi lặng im. Khi nào cũng vậy, nhìn thấy đôi mắt rơm rớm của mẹ là tôi đầu hàng. Hồi tôi còn nhỏ cũng thế, nếu không sợ mẹ đau lòng thì tôi đã không đem đổ cả lũ tượng đất lớn nhỏ mà tôi hì hụi nắn được trong góc vườn. Bắt đầu biết nghịch đất sét, tôi đã mày mò nặn con chó, con mèo, nặn hình ông Thọ, cô tiên.
Các bạn rượu của cha tôi xoa đầu tôi mà bảo: "Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh", con của một họa sĩ thì tương lai rõ là một nhà điêu khắc rồi, không sai... Rất có thể điều tiên đoán ấy sẽ thành sự thật và tôi sẽ trở thành con kế nghiệp của cha tôi nếu một hôm tôi không khờ dại nặn ra pho tượng đất sét ấy.
Thấy nó, mẹ tôi choáng váng, nghẹn không nói được. "Huân, con làm gì thế này?" Bức tượng của tôi chỉ dài chừng ba tấc, đây là hình ảnh một người đàn bà không mặc quần áo. Năm đó tôi mười hai tuổi, với cục đất sét tôi thể hiện sự tò mò giới tính của tôi, và không quên dùng một nhúm tóc rối nhét vào giữa hai bắp vế pho tượng.
Mẹ tôi đập bể tan tành cái tượng ma quỷ đó. Tôi uất ức, vì đó chỉ là kết quả sự chiêm ngưỡng hồn nhiên khi một lần tôi tình cờ thấy mấy cô hàng xóm đi tắm ngoài bến nước. Mẹ tôi khóc không thành tiếng. Người cho đào hết bộng đất sét sau vườn đem đổ đi, thay vào bằng đất bùn lấy ở bờ sông sau mùa lũ. Bộng đất ấy dài bốn mét, sâu đến hai mét tư, khi vét xong để lại một lỗ trống toang hoác nơi góc vườn.
Người ta lấp đầy nó bằng đất thịt lấy ở triền sông. Ba tôi bảo: "Việc gì phải thế". Mẹ tôi chỉ nói: "Đất này trồng cây, trồng hoa tốt hơn". Từ lâu rồi mẹ tôi vẫn thường đối phó với ba tôi bằng cách dịu dàng lảng tránh như thế. Giữa ba mẹ tôi không bao giờ to tiếng, bởi người nhường nhịn lúc nào cũng là mẹ. Mẹ mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, tối ngày cố xếp đặt căn nhà, khu vườn thật chỉn chu, ngăn nắp.
Ba tôi thì cao lớn, nóng nảy, ra vào trong cái trật tự của mẹ như một con ngựa chiến bị buộc trong chuồng. Từ ngày ấy, mẹ luôn đóng cửa phòng vẽ của ba tôi, nó đã trở thành một thế giới riêng đầy bí ẩn. Ngoài giờ ăn, ngủ, hầu hết thời gian ba tôi giam mình trong đó. Rồi ít lâu sau, người ngủ luôn ở đấy, hầu như không quay về phòng nữa.
Cuộc sống gia đình vẫn lặng thầm trôi đi trong êm ấm, và với tôi thế giới bên trong căn phòng vẽ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy kích thích khiến tôi luôn tưởng tượng mà không dám đặt chân đến bao giờ.
Em Dung quỳ úp mặt vào tường, thật tội nghiệp. Tôi mua bánh chuối ram, gói trong miếng giấy, len lén đem vào cho em. Lúc đó tôi mới biết em đã không quỳ yên một chỗ như tôi tưởng. Em nhích dần dần đến bên cửa sổ, bây giờ em chẳng còn úp mặt vào bức vách mà đang nhìn ra sông. Gió từ ngoài thổi vào, làm tóc mai em bay nhẹ, em nheo mắt và cười, trong khi cao hứng em tì luôn hai khuỷu tay chồm lên cửa sổ như người ngắm cảnh.
"Thế mà gọi là chịu phạt đấy à? Mẹ thấy thì lại bắt quỳ thêm cho đến chiều!" Em giật mình, quay nhìn tôi, hơi e dè một lát rồi nhoẻn cười: "Suỵt, mẹ đang nấu ăn, không thấy đâu". Hai anh em quỳ bên nhau nhìn ra con đập. Con nước đầu mùa vẫn lồng lộn dưới chân kè đá. "Anh Hai ơi, sao mà mắt anh đỏ?". Em Dung hỏi, bàn tay nhỏ của em chạm lên má tôi. "Anh nhớ ba" "Ba ngày xưa ra sao hở anh?" Tôi lúng túng, không biết nói sao.
Thực tình là ba đã có nhiều điều không phải với mẹ. Nhưng tôi không thể không yêu ba tôi, không thể không cảm thấy mối liên hệ máu thịt và sức hấp dẫn kỳ lạ toát ra từ người đã cho tôi cuộc sống. Mỗi lần nhìn con đập này, tôi không sao quên được những ngày vừa ngớt cơn mưa đầu mùa, ba dẫn tôi lội nước đến bên bờ sông. Dòng nước đã vượt qua con đập, chảy xiết. Có năm nước dữ, một bên mé đập sạt đi những tảng lớn, sau mùa lũ người ta phải vá lại.
"Ba ơi, sao người ta không xây đập cao lên chừng năm tấc nữa cho nước khỏi tràn hở ba?". Tôi hỏi. Ba tôi cười, người cõng tôi lên vai cho nước khỏi làm ướt chân tôi. "Con đập là kỷ cương của dòng sông, nhưng nó không phải là chính dòng sông". Ba tôi nói, câu trả lời của người bay thoảng trong trí nhớ vô tư của tôi hồi ấy, đến giờ tôi vẫn nhớ nhưng chẳng hiểu thật sự người muốn nói gì.
Có lẽ đó là những giờ đáng nhớ nhất của hai cha con, vì ba tôi về sau này càng ngày càng lặng lẽ, nếu không giam mình trong phòng vẽ thì cũng đi giang hồ đâu đó, cho đến khi người mất đột ngột trong một chuyến ngao du. Tôi còn nhớ đấy là tháng cuối mùa mưa, tôi sắp tròn mười bảy tuổi.
Mẹ tôi một đời khổ hạnh, âm thầm, nhẫn nhục chỉ để được danh chính ngôn thuận đứng ở đầu quan tài cha tôi khi đưa người đến mộ. Tôi gói những cái cọ vẽ bỏ xuống huyệt cho cha tôi. Ở đằng xa, người đàn bà ôm đứa bé đứng co ro, khép nép, cái nón che nghiêng nửa mặt. Nhiều người ném về phía ấy những cái nhìn khinh rẻ, những cái nguýt, cái háy đầy vẻ lạnh nhạt.
Cô ta xin một chiếc khăn tang...